Camping tại Cát Bà. Quần đảo Cát Bà là một quần đảo gồm 367 trên diện tích rộng khoảng 300km2, với 136 bãi tắm trên Vịnh Lan Hạ. Vườn Quốc Gia Cát Bà có diện tích khoảng 17000 ha, có Đỉnh Ngự Lâm cao khoảng 200m so với mặt nước biển, cùng với nhiều thảm thực vật
Ngày 9-9, Cơ quan CSĐT Công an huyện Vĩnh Linh (Quảng Trị) cho biết đã khởi tố bị can, bắt tạm giam Đỗ Văn Nam (1989, trú xã Vĩnh Long, H. Vĩnh Linh) để điều tra về hành vi: "Cố ý gây thương tích". Bị hại trong vụ án là anh Lê Thanh L. (47 tuổi, trú xã Thanh An, H. Cam Lộ), điều đáng nói, anh L. không hề quen biết
Suy thoái môi trường và những tác động của sự nóng lên toàn cầu đối với động vật hoang dã. Suy thoái môi trường biển tác động không chỉ giới hạn ở san hô. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng gần một nửa số loài có nguy cơ tuyệt chủng nếu sự nóng lên toàn cầu gây
(TN&MT) - Trước thực trạng môi trường biển đang bị ô nhiễm, nhiều ngư dân ở Đà Nẵng đang tích cực chung tay giảm thiểu việc thải bỏ rác thải nhựa xuống biển và giảm thiểu sử dụng ngay từ trên bờ để hạn chế khối lượng rác thải nhựa thất thoát ra môi trường, trôi ra biển.
Sự tích dã tràng xe cát biển Đông Dã Tràng vốn là một chàng trai tốt bụng, nhờ ra tay giúp một con rắn đực mà được tặng một viên ngọc quý. Về sau cũng vì viên ngọc đó cùng sự tốt bụng của mình, Dã Tràng lại bị dân làng phản bội, đàn quạ hàm oan rắp tâm hãm hại. Nhưng rồi lại nhờ viên ngọc cậu ta đã thoát tội diệt thân.
Vay Tiền Nhanh Chỉ Cần Cmnd. Dân gian Việt Nam có câu “Dã Tràng xe cát biển Đông”. Hãy cùng đọc truyện cổ tích Sự tích con Dã Tràng để tìm hiểu về nguyên nhân và ý nghĩa của câu nói này nhé! Truyện cổ tích Sự tích con Dã Tràng Ngày xưa, có hai vợ chồng ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn có một cái hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp rắn hổ mang ra vào trong hang. Một hôm, con rắng chồng bò ra khỏi hang một mình. Ông nhìn thấy rắn vợ nằm cuộn ở trong, vì mới lột nên mình mẩy của nó còn yếu ớt không cựa quậy được. Một lúc sau, rắn chồng bò trở về, miệng tha một con nhái đút cho rắn vợ ăn. Ít lâu sau, Dã Tràng lại thấy rắn vợ bò ra khỏi hang một mình. Lần này rắn chồng đến kỳ lột nằm im thin thít. Hồi lâu rắn vợ trở về, theo sau rắn vợ thấy một con rắn đực khác khá lớn. Dã Tràng thấy hai con bò đến cửa hang thì dừng lại rồi quấn lấy nhau như bện dây thừng. Một lát sau, con rắn đực bò một mình vào hang. Dã Tràng biết con rắn đực này toan làm gì rồi. Tự nhiên ông thấy ngứa mắt muốn trừ bỏ con rắn đó đi để cứu con rắn chồng đang lúc suy nhược. Lúc đó bên mình không có cái gì cả, ông bèn rút một mũi tên nhắm vào con rắn đực mới đến, bắn ngay một phát. Không ngờ mũi tên lại trúng vào đầu con rắn vợ làm nó chết tươi. Con rắn đực kia hoảng hồn chạy mất. Dã Tràng nghĩ cũng thương con rắn cái nhưng trong thương có lẫn cái giận, nên ông chán nản bỏ về nhà. Từ đó ông không thèm để ý đến hang rắn nữa. Chừng một năm sau, một hôm, Dã Tràng nằm võng thuật chuyện vợ chồng con rắn cho vợ nghe và kể những việc mình đã thấy và đã làm. Ông kể vừa dứt thì tự nhiên nghe trên mái nhà có tiếng phì phì. Cả hai người hốt hoảng nhìn lên thì thấy có một con rắn hổ mang rất lớn, đuôi quấn lấy xà nhà, đầu vươn xuống tới gần chỗ ông nằm, miệng nhả một viên ngọc. Ông vừa cầm lấy thì bỗng nghe được tiếng rắn nói – Ông là ân nhân mà tôi cứ tưởng là kẻ thù. Mấy hôm nay tôi đợi ông trên mái nhà này chỉ chực mổ chết để báo thù cho vợ tôi. Nhưng hồi nãy nghe ông kể chuyện rõ ràng, tôi mới biết là mình lầm. Xin biếu ông viên ngọc này. Đeo nó vào mình thì có thể nghe hiểu được tiếng muông thú trên thế gian này. Từ kinh ngạc đến sung sướng, Dã Tràng nhận viên ngọc quý và từ đó ông không bao giờ rời. Một hôm, Dã Tràng đang hái rau, tự dưng có một bầy quạ đến đậu ở mấy ngọn cau nói chuyện xôn xao. Chúng nó bảo Dã Tràng rằng ở núi Nam có một con dê bị hổ vồ. Hãy lên đó lấy về mà ăn nhưng nhớ để lòng lại cho chúng nó. Dã Tràng làm theo lời quạ, quả thấy xác một con dê trên núi Nam. Ông xẻo lấy một ít thịt xâu lại xách về. Đến nhà, ông vội mách cho xóm giềng biết mà đi lấy, không quên dặn họ để lại bộ ruột dê cho bầy quạ. Nhưng ông không ngờ người hàng xóm nghe tin ấy đua nhau đi đông quá, thành ra họ lấy hết cả, chẳng chừa một tí gì. Lũ quạ không thấy ruột dê, cho là Dã Tràng đánh lừa bèn đổ xô đến vườn ông réo om lên. Thấy vậy, ông biết là người trong xóm đã hại mình không giữ chữ tín với bầy quạ. Ông phân trần mấy lần nhưng bầy quạ không nghe, cứ đứng đó chửi mãi. Tức mình, ông bèn lấy cung tên bắn vào chúng. Chủ ý để đuổi chúng đi chứ không định giết. Chẳng ngờ bầy quạ thấy vậy cho là ông lấy oán trả ân, liền cắp lấy mũi tên có đề tên Dã Tràng ở đuôi, tìm dịp báo thù. Lúc bay qua sông thấy một cái xác chết trôi, đàn quạ bèn đem mũi tên ấy cắm vào yết hầu xác chết. Khi quan sở tại đến làm biên bản, thấy mũi tên, liền đoán ngay Dã Tràng là thủ phạm, sai lính bắt ông hạ ngục. Từ đề lao tỉnh, ông lại bị điệu đi. Dọc đường trời tối, bọn lính dừng lại ăn uống nghỉ ngơi. Dã Tràng cổ bị gông, chân bị xiềng nằm trên đống rơm buồn rầu không ngủ được. Lúc trời gần rạng, ông nghe có một đàn chim sẻ bay ngang đầu nói chuyện với nhau – Nhanh lên! Chuyến này không lo đói nữa mà cũng chả sợ ai đánh đuổi cả. Một con khác hỏi – Của ai mang đến bỏ vương vãi thế? Con nọ trả lời – Của vua nước bên kia. Họ toan kéo sang đánh úp bên này. Ngày hôm qua quân đội giáo mác kéo đi liên miên không ngớt, nhưng xe thóc vừa đến biên giới thì bị sụp hầm đổ hết. Họ đang trở về lấy lương khác cho nên chúng ta tha hồ chén. Nghe đoạn, chờ lúc bọn lính thúc giục lên đường, Dã Tràng bảo họ – Xin các ông bẩm lại với quan rằng việc của tôi là việc oan uổng và nhỏ mọn, không nên bận tâm, mà giờ đây chỉ nên lo việc quốc gia trọng đại thôi, và còn cấp bách nữa là khác. Bọn lính tra gạn ông mãi nhưng ông không nói gì thêm, chỉ nài rằng hễ có mặt quan thì mới tỏ bày rõ ràng. Khi gặp mấy vị quan đầu tỉnh, Dã Tràng mới cho họ biết rằng vua Hiến Đế ở phương Bắc đã sai tướng mang quân sang đánh úp nước mình. Hiện họ đang đóng quân ở đầy biên giới, chỉ vì sụp hầm, xe lương đổ hết chưa tấn công được. Bây giờ họ đang vận chuyển thêm lương, chờ đầy đủ sẽ vượt ải sang Nam. Bọn quan tỉnh lấy làm lo lắng, nhưng cũng cố hỏi ông có dám chắc như vậy không. Dã Tràng chỉ vào đầu mình mà quả quyết rằng, nếu nói sai, ông sẽ xin chịu chết. Nhưng nếu lời của ông đúng thì xin bề trên thả ra cho. Ngay lúc đó, những tên quân do thám được tung đi tới tấp để lấy tin. Và nội ngày hôm sau, Dã Tràng được thả vì lời mách của ông quả không sau và vừa vặn đúng lúc để chuẩn bị đối phó với địch. Được tha, Dã Tràng đi bộ lần về quê nhà. Bóng chiều vừa ngả, ông mới đến vùng Hồng Hoa. Ông tìm cách vào nhà người bạn rất thân là Trần Anh nghỉ chân. Khi gặp bạn cũ, vợ chồng Trần Anh vui mừng khôn xiết. Nghe tin ông bị tra tấn gông cùm và suýt mất đầu, hai vợ chồng rất cảm thương bạn. Thấy bữa ăn tối thết bạn không có gì, Trần Anh xuống bếp bảo vợ – Bạn ta đến lại gặp lúc trong nhà chẳng có gì ăn. Sẵn có cặp ngỗng, con nó đã khôn, ta làm thịt một con, ngày mai đãi bạn lên đường. Người vợ đồng ý, nhưng dặn chồng sáng dậy sớm bắt ngỗng và cắt tiết vặt lông giúp mình một tay. Trong khi hai vợ chồng bàn tính thì cặp ngỗng ở ngoài chuồng nghe được câu chuyện. Ngỗng trống bảo ngỗng mái – Mình ơi! Mình hãy ở lại nuôi con, tôi sẽ đứng sẵn cho chủ nó bắt!… Ngỗng mái không nghe, xin chết thay cho chồng. Nhưng ngỗng trống nhất quyết hy sinh, chạy ra sân từ giã đàn con – Con ơi! Các con ở lại với mẹ nghe. Cha không bao giờ gặp lại các con nữa!… Nhưng ngỗng mái lạch bạch chạy theo, đòi chết thay chồng cho bằng được. Lúc ấy Dã Tràng nằm trên bộ ván đặt gần cửa sổ nên nghe được tiếng ngỗng than thở. Ông bỗng thấy thương con vật vô tội chỉ vì mình mà lìa đàn con bé bỏng. Ông toan nói trước với bạn, nhưng thấy bất tiện. Ông đành nghe ngóng ở chỗ chuồng ngỗng chờ lúc bạn bắt thì sẽ cản lại. Suốt đêm hôm đó tuy mệt mà ông không dám ngủ. Quả nhiên vào canh tư, Trần Anh thức dậy bước ra chuồng. Ngỗng trống xua ngỗng mái chạy rồi vươn cổ để cho bắt. Khi Trần Anh sắp cắt cổ ngỗng thì Dã Tràng đã lật đật chạy xuống bếp nắm lấy dao. Ông nói – Xin bạn thả nó ra. Tính tôi không hay sát sinh. Tình bạn của chúng ta đâu phải có cỗ bàn mới thân sao? Nếu bạn giết nó thì tôi lập tức đi khỏi chỗ này. Thấy bạn có vẻ quả quyết, Trần Anh đành thả ngỗng ra, ròi giục vợ chạy đi mua tép về đãi bạn. Cơm nước xong, Dã Tràng từ giã bạn lên đường về nhà. Đến ao, ông đã thấy vợ chồng nhà ngỗng cùng với đàn con đứng chực ở đấy. Ngỗng đực tặng Dã Tràng một viên ngọc và nói – Đa tạ ân cứu mạng. Không biết lấy gì báo đền, chúng tôi xin tặng ngời viên ngọc này, mang nó vào người có thể đi được dưới nước dễ dàng không khác gì trên bộ. Nếu đem ngọc này xuống nước mà khoắng thì sẽ rung động đến tận đáy biển. Ngỗng lại nói tiếp – Còn như con tép là vật đã thế mạng chúng thôi thì từ nay dòng dõi chúng tôi sẽ xin chừa tép ra không ăn, để tỏ lòng nhớ ơn. Dã Tràng không ngờ có sự báo đáp quá hậu như thế, sung sướng nhận lấy ngọc rồi về. Khi đến bờ sông, Dã Tràng muốn thử xem công hiệu của viên ngọc mới, liền cứ để nguyên quần áo đi xuống nước. Ông dạo cảnh hồi lâu rồi cầm viên ngọc khoắng vào nước nhiều lần để xem hiệu quả thế nào. Hôm đó, Long Vương và các triều thần đang hội họp ở thuỷ phủ bỗng thấy nhà cửa lâu đài và mọi kiến trúc khác tự nhiên rung động, cơ hồ muốn đổ. Ai nấy đều nháo nhác không hiểu duyên cớ. Vua lập tức truyền cho thuộc hạ đi dò la sự tình. Bộ hạ Long Vương theo con đường sóng ngầm lọt vào cửa sông thì thấy Dã Tràng đang cầm ngọc khoắng vào nước. Mỗi lần khoắng như thế, họ cảm thấy xiêu người, nhức óc. Tuy biết thủ phạm, họ cũng không dám làm gì cả, chỉ tiến đến dùng lời khéo mời ông xuống chơi thuỷ cung. Gặp Long Vương, Dã Tràng cho biết là mình chỉ làm thử để xem phép có hiệu nghiệm chăng. Long Vương và triều thần nghe nói, ai nấy đều xanh mặt. Nếu hắn làm thật thì thuỷ phủ sẽ không còn gì nữa. Vì thế, Long Vương đã tiếp đãi Dã Tràng rất hậu, ông muốn gì có nấy. Cho đến lúc ra về, Long Vương đem vàng bạc cống tiến rất nhiều để mong ông nể mặt. Dã Trang lên khỏi nước có thuộc hạ của Long Vương tiễn chân về tới tận nhà mới trở lại. Bà con xóm giềng thấy ông đã không việc gì mà lại còn trở nên giàu có thì ai cũng lấy làm mừng. Từ đó Dã Tràng rất quý hai viên ngọc. Ông may một cái túi đựng nó và luôn đeo ở cổ. Một hôm, Dã Tràng đi bộ nửa ngày đường đến nhà một người bà con ăn giỗ. Lúc đến nơi, Dã Tràng sờ lên cổ mình mới nhớ là mình vì quá vội vã nên đã bỏ quên mất túi ngọc ở nhà. Ông không thể nào an tâm ngồi ăn được. Mọi người đều lấy làm ngạc nhiên khi thấy ông vừa chân ướt chân ráo đến nơi đã vội cáo từ về ngay. Nhưng khi về đến nhà, ông tìm mãi không thấy túi ngọc đâu cả. Người rụng rời cả, đi tìm vợ không thấy. Nóng ruột, ông lục lọi khắp nơi. Cuối cùng ông bắt được một mảnh giấy di vợ viết để lại gài ở chỗ treo áo, trong đó vợ ông nói rằng có người của Long Vương lên bảo cho biết hễ ai bắt được túi ngọc đưa xuống dâng cho Long Vương thì sẽ được làm hoàng hậu. Bởi vậy bà ta đã trộm phép ông đưa túi ngọc xuống thuỷ phủ rồi, không nên tìm làm gì cho mệt. Đọc xong thư vợ, Dã Tràng ngất đi. Ông không ngờ vợ ông lại có thể như thế được. Ông cũng không ngờ âm mưu của Long Vương lại thâm độc đến nước ấy. Nghĩ đến hai thứ báu vật, ông giận tím ruột. Sau cùng, ông dự tính chở cát lấp biển thành một con đường đi xuống thuỷ phủ để lấy lại túi ngọc, vì ông còn nhớ cả đường lối đến cung điện của Long Vương. Mặc dầu mọi người can ngăn ông, ông cũng dọn nhà ra bờ biển để làm công việc đó. Ngày ngày ông xe cát chở đến bờ quyết lấp cho bằng được. Cho đến tận lúc chết, Dã Tràng vẫn không chịu bỏ dở công việc. Chết rồi ông hoá thành con còng còng hay cũng gọi là Dã Tràng, ngày ngày xe cát để lấp biển. “Theo kho tàng truyện cổ tích Việt Nam – NXB Văn Học” Truyện cổ tích sự tích con dã tràng Bài học rút ra từ truyện cổ tích “Sự tích con Dã Tràng” Câu chuyện “Sự tích con Dã Tràng” đã giải thích nguồn gốc của hành động “xe cát biển Đông” này, là để lấp biển thành một con đường đi xuống thuỷ phủ để lấy lại túi ngọc. Nhưng Dã Tràng có lấp biển thành công không? Không bao giờ, vì sức của ông chỉ có hạn, mỗi lần ông chỉ chở được một xe cát nhỏ, mà biển Đông thì vô cùng rộng lớn. Qua đây ta có thể thấy, hành động “xe cát biển Đông” là một hành động vô ích và lãng phí thời gian. Việc xe cát lấp biển Đông là một công việc nhọc nhằn mà không mang lại kết quả gì. Câu chuyện cũng chế giễu những người thiếu suy nghĩ, làm những việc vô ích Dân gian Việt Nam có câu Dã tràng xe cát biển Đông Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì Đồng thời, câu chuyện cũng khuyên nhủ chúng ta phải biết suy nghĩ chín chắn trước khi làm bất cứ việc gì, phải biết phân tích tình hình, đưa ra kế hoạch rõ ràng để đạt được mục tiêu, không nên làm những việc phi thực tế. Thảo Duyên Blog Con Mọn
Dã tràng xe cát biển Đông Dã tràng xe cát biển Đông Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì Cùng thể loại Trời cao bể rộng bao la Trời cao bể rộng bao la Việc gì mà chẳng phải là may ta Trong việc nhà, ngoài thì việc nước Giữ làm sao sau trước vẹn tuyền Lọ là cầu Phật, cầu Tiên Trời cho cày cấy đầy đồng Trời cho cày cấy đầy đồng Xứ nào xứ ấy trong lòng vui ghê Một mai gặt lúa đem về Thờ cha kính mẹ nhiều bề hiếu trung Lúa một chục trả một thiên Lúa một chục, trả một thiên Cho vay cắt cổ đừng phiền tại ai! Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. Hãy cân nhắc trước khi bấm xem. Đi đứng thì phải khoan thai Đi đứng thì phải khoan thai Đừng đi vội vã lồn nhai trẹo lồn Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. Hãy cân nhắc trước khi bấm xem. Trên đời nhất đẹp là lồn Trên đời nhất đẹp là lồn Nhất ngon là muối, nhất khôn là tiền Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. Hãy cân nhắc trước khi bấm xem. Em ơi chớ có bồn chồn Em ơi chớ có bồn chồn Đến năm mười bốn thì lồn mọc lông Mười lăm chỗ có chỗ không Đến năm mười sáu thì lông ra đều Mười bảy lông ngả một chiều Đến năm mười tám có nhiều sợi quăn Anh nhiêu đi học không thầy Anh nhiêu đi học không thầy Làm bài không bút thiếp rày theo anh Chàng ràng bắt cá hai tay Chàng ràng bắt cá hai tay, Con trong cũng mất con ngoài cũng không Ở đây ăn bát rau chành Ở đây ăn bát rau chành Còn hơn chốn khác mâm gành cỗ gơ Trên trời có cả cầu vồng Trên trời có cả cầu vồng, Có cái mống cụt đằng đông sờ sờ. Có cùng từ khóa Dã tràng xe cát bể Đông Dã tràng xe cát bể Đông Biết rằng có thật hay không mà chờ Trách cây trách lá bơ vơ Nợ trần biết trả bao giờ cho xong? Dù cho cạn nước Thu Bồn Dù cho cạn nước Thu Bồn Hải Vân hóa cát, biển Đông thành đèo Dù cho cay đắng trăm điều Cũng không lay được tình keo nghĩa dày Công dã tràng thường ngày xe cát Công dã tràng thường ngày xe cát Sóng ba đào, ai xét công cho Dã tràng xe cát uổng công Dã tràng xe cát uổng công Lòng anh thương bậu đã mấy đông chịu sầu Cho dù cạn nước biển ông Cho dù cạn nước biển ông Hết tràm ồng Tháp vẫn không phai lời. Bắt con còng gió, anh bỏ vào hang Bắt con còng gió, anh bỏ vào hang, Nghe em than thở ruột gan rối nùi Biển Đông sóng động có mùa Biển Đông sóng động có mùa Giàu nghèo có lúc, được thua có hồi Biển Đông sóng dợn tư mùa Biển Đông sóng dợn tư mùa Ai cho em uống thuốc bùa em mê Yêu lắm làm chi Yêu lắm làm chi Nhớ lắm làm chi Khi xưa anh nói đổ núi Ba Vì Bể Đông cạn nước anh cũng nằm kề bên em Ai xui anh cắt đường duyên Để em chịu nỗi đắm thuyền bên sông Trắng da vì bởi má cưng Trắng da vì bởi má cưng Đen da vì bởi lội bưng nhổ bàng Dị bản Trắng da vì bởi má cưng Đen da vì bởi lội bưng vớt bèo Trắng da vì bởi má cưng Đen da vì bởi lội bưng tát bàu Dã tràng Còn gọi là dạ tràng, một loài giáp xác nhỏ giống con cáy sống ở bãi cát ven biển, hàng ngày vê cát thành từng viên nhỏ để tìm kiếm thức ăn khi thủy triều xuống, nhưng khi thủy triều lên lại đánh tan hết. Đọc thêm về sự tích con dã tràng. Dã tràng xe cát Lọ là Chẳng lọ, chẳng cứ gì, chẳng cần, hà tất từ cũ. Bấy lâu đáy bể mò kim, Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa? Ai ngờ lại họp một nhà, Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm! Truyện Kiều Thiên Đơn vị đo lường thóc gạo. Mỗi thiên bằng một trăm giạ. "Tinh thần khoa trương, tự hào của người lưu dân cũng được thấy biểu lộ trong ngôn ngữ thường nhật bằng cách ngoa ngữ, nghĩa là họ nói quá đi. ... Thí dụ như 10 giạ lúa thì gọi là "một trăm lúa"; còn 100 giạ thì gọi là "một thiên lúa", tức 1000 giạ." Văn truyền khẩu trên đất Đồng Nai - Nguyễn Văn Hầu Nhiêu Chức vị ở làng xã thời phong kiến, thường phải bỏ tiền ra mua để được quyền miễn tạp dịch. Rày Nay, bây giờ phương ngữ. Chàng ràng Quanh quẩn, vướng bận, chậm chạp để kéo dài thời gian hoặc gây chú ý. Rau chành Rau vặt vãnh phương ngữ Bắc Trung Bộ. Mâm gành cỗ gơ Mâm gỗ, cỗ được xếp thành nhiều tầng phương ngữ Bắc Trung Bộ. Sông Thu Bồn Tên con sông bắt nguồn từ núi Ngọc Linh tỉnh Kon Tum phần thượng lưu này được gọi là Đak Di, chảy lên phía Bắc qua các huyện trung du của tỉnh Quảng Nam đoạn chảy qua các huyện Tiên Phước và Hiệp Đức được gọi là sông Tranh - bắt đầu qua địa phận Nông Sơn, Duy Xuyên mới được gọi là Thu Bồn, đổ ra biển tại cửa Đại, một nhánh chảy vào sông Vĩnh Điện để đổ nước vào sông Hàn. Sông Thu Bồn cùng với sông Vu Gia tạo thành hệ thống sông lớn gọi là hệ thống sông Thu Bồn, có vai trò quan trọng đối với đời sống và văn hóa người Quảng. Sông Thu Bồn tại Hội An, Quảng Nam Hải Vân Một con đèo nằm giữa tỉnh Thừa Thiên-Huế ở phía Bắc và thành phố Đà Nẵng trước đây là tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng ở phía Nam. Đèo còn có tên là đèo Ải Vân hoặc đèo Mây, vì trên đỉnh đèo thường có mây bao phủ. Đèo Hải Vân một bên là biển, một bên là dốc núi dựng đứng, có tiếng hiểm trở, nhưng đồng thời cũng là một danh thắng từ trước đến nay. Đèo Hải Vân Ba đào Sóng gió, chỉ sự nguy hiểm, bất trắc từ Hán Việt. Bậu Cũng nói là em bậu, tiếng gọi người tiếp chuyện với mình, khác giới tính, có ý thương mến, thân mật. Cách xưng hô "qua, bậu" thường được dùng trong quan hệ vợ chồng, người yêu phương ngữ Nam Bộ. Tràm Một loại cây mọc hoang thành rừng ở đồi núi và vùng ngập mặn. Ở nước ta, Cà Mau nổi tiếng là xứ nhiều tràm. Tràm thường được dùng lấy gỗ hoặc cất tinh dầu từ hoa và lá. Rừng tràm ở Long An Đồng Tháp Một tỉnh nằm ở miền Tây Nam Bộ, thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đồng Tháp nằm ở cửa ngõ của sông Tiền, có đường biên giới giáp với Campuchia, nổi tiếng với những đầm sen, bàu sen... Ngó và hạt sen là những đặc sản của vùng này. Đầm sen Đồng Tháp Còng gió Loại còng ở biển, chạy rất nhanh. Nhân dân ta thường bắt còng gió làm mắm hoặc làm món ăn, nhất là trong những ngày biển động. Còng gió Chi Gì phương ngữ Trung và Nam Bộ. Ba Vì Tên một dãy núi đất và đá vôi lớn trải trên một phạm vi rộng chừng 5000 ha ở ba huyện Ba Vì Hà Nội, Lương Sơn và Kỳ Sơn Hòa Bình, cách nội thành Hà Nội chừng 60km. Dãy Ba Vì có nhiều ngọn núi, nhưng nổi tiếng nhất là Tản Viên, còn gọi là núi Tản. Núi này cao 1281m, gần đỉnh thắt lại, đến đỉnh lại xòe ra như chiếc ô nên gọi là Tản 傘. Ở chân núi Tản có đền Hạ, lưng chừng núi có đền Trung, đỉnh núi có đền Thượng là nơi thờ Sơn Tinh đức thánh Tản, một trong tứ bất tử, thể hiện cho khát vọng làm chủ thiên nhiên của người Việt. Ba Vì được xem là dãy núi tổ của dân tộc ta. Ba Vì Bưng Vùng đồng lầy ngập nước, mọc nhiều cỏ lác. Từ này có gốc từ tiếng Khmer trapéang vũng, ao, ban đầu đọc là trà bang, trà vang, sau rút lại còn bang rồi biến âm thành bưng. Bưng cũng thường được kết hợp với biền biến âm của biên thành bưng biền. Cỏ bàng Còn gọi là cói bàng hay gọi tắt là bàng, một loài cỏ cao, thân rỗng, thường mọc thành đồng những vùng đất nhiễm phèn miền Tây Nam Bộ. Củ bàng có thể ăn thay cơm, thân bàng dùng để đan nhiều đồ dùng hữu ích như đệm lót, giỏ xách, bao cà ròn, nón, võng, nóp một loại nệm nằm, thậm chí cả buồm cho tàu ghe hay áo mặc. Nghề đan bàng do đó là nghề kiếm sống của nhiều người dân Nam Bộ trước đây, hiện đang được phục hồi sau một thời gian mai một, chủ yếu tập trung vào chế tác hàng mỹ nghệ. Đêm đêm trong ánh trăng mờ Gần xa rộn tiếng nhặt thưa giã bàng Trường ca Đồng Tháp Mười - Nguyễn Bính Đồng cỏ bàng ở Mộc Hoá, Long An Đan đươn bàng Bàu Chỗ sâu trũng như ao vũng, thường ở ngoài đồng. Bàu sen ở Mũi Né, Bình Thuận
sự tích dã tràng xe cát biển đông